Mỗi năm Việt Nam có thêm 10.000 sinh viên theo học ngành bán dẫn, song TS Võ Xuân Hoài cho rằng Việt Nam sẽ không đối mặt "khủng hoảng thừa". Theo Chương trình "Phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, định hướng đến năm 2050", Việt Nam đặt mục tiêu đào tạo ít nhất 50.000 kỹ sư bán dẫn, gồm 15.000 kỹ sư thiết kế vi mạch, 35.000 kỹ sư trong các công đoạn sản xuất, đóng gói. Phó giám đốc Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC) Võ Xuân Hoài chia sẻ với VnExpress về tình hình sau một năm triển khai và lý do ông tin Việt Nam cần lượng lớn nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành. - Chương trình phát triển nguồn nhân lực bán dẫn được Chính phủ ban hành tháng 9/2024, sau một năm, tiến độ thực tế ra sao? - Theo số liệu tại cuộc họp Ban chỉ đạo quốc gia về phát triển công nghiệp bán dẫn do Thủ tướng chủ trì hồi tháng 8, Việt Nam có khoảng 7.000 kỹ sư thiết kế vi mạch - tăng gần 1.000 người so với trước. Số lượng kỹ sư làm đóng gói kiểm thử, vật liệu và thiết bị bán dẫn hiện khoảng 7.000-8.000 người. Như vậy, tính sơ bộ, Việt Nam hiện có 15.000 kỹ sư, chưa kể khoảng 10.000 kỹ thuật viên. Phần lớn sự gia tăng thời gian qua là từ việc đào tạo chuyển đổi kỹ sư ở những chuyên ngành gần. - Nhiều trường đại học trong nước cùng lúc mở ngành vi mạch. Với hàng nghìn người ra trường mỗi năm, ông nghĩ gì về nguy cơ "khủng hoảng thừa" sau 5 năm nữa? - Với đào tạo chính quy, năm 2024, Việt Nam có gần 30 trường có ngành hoặc chuyên ngành vi mạch, tổng tuyển sinh gần 10.000 sinh viên. Sang 2025, con số này dự kiến còn tăng. Tuy nhiên, đối với nhân lực trình độ cao, chúng ta chỉ sợ thiếu chứ không sợ thừa. Ông Võ Xuân Hoài, Phó giám đốc Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia NIC, tại sự kiện công bố triển lãm bán dẫn 2025. Ảnh: Lưu Quý Mục tiêu của Việt Nam là đến 2030 đào tạo được 50.000 kỹ sư bán dẫn, nhưng không phải tất cả đều dùng cho thị trường trong nước. Đây là ngành có tính toàn cầu cao, nhân lực đào tạo ra có thể làm tại các nền kinh tế phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, châu Âu, đảo Đài Loan - nơi thiếu hụt kỹ sư trầm trọng. Trên thực tế, họ cũng đang chủ động "đặt hàng" Việt Nam, thông qua việc phối hợp phát triển nguồn nhân lực, cấp học bổng, đào tạo việc làm. Đài Loan (Trung Quốc) cam kết nhận sinh viên Việt sang học, trả toàn bộ học phí, rồi sau ra trường ở lại làm việc. Nhật Bản thường xuyên có các đoàn sang Việt Nam tuyển dụng nhân lực. Ở trong nước, Coherent vừa xây thêm nhà máy ở Đồng Nai, cần kỹ sư nhưng vẫn chưa đủ. Nhiều doanh nghiệp phía Bắc cũng đang có nhu cầu tương tự. Vì vậy, 50.000 kỹ sư bán dẫn đào tạo ra không lo thất nghiệp, mà ngược lại, có thể không đủ đáp ứng nhu cầu. - Nhu cầu nhân lực bán dẫn trong nước đang lớn đến đâu để hấp thụ nguồn lực này? - Nhu cầu về nhân lực bán dẫn trong nước đang tăng nhanh. Chỉ trong hai năm, doanh nghiệp thiết kế vi mạch tăng từ 40 lên gần 60 công ty. Ở mảng đóng gói, kiểm thử và sản xuất, số doanh nghiệp cũng tăng gấp đôi, từ 7 lên 15, với sự xuất hiện của các tên tuổi như Coherent, Amkor, Hana Micron, cùng nhiều doanh nghiệp Hàn Quốc, Pháp, đảo Đài Loan. Sự tăng trưởng về số doanh nghiệp bán dẫn phần lớn bắt nguồn từ môi trường chính sách thông thoáng hơn và trình độ kỹ sư Việt Nam ngày càng được công nhận. Không chỉ tăng về số lượng, doanh nghiệp tại Việt Nam cũng mở rộng quy mô đáng kể. Ví dụ, Marvel tăng từ 300 lên hơn 500 kỹ sư thiết kế, Qorvo tăng thêm gần 100 người trong chưa đầy hai năm. Một số mẫu chip bán dẫn cho kỹ sư Việt tham gia phát triển. Ảnh: Lưu Quý Tốc độ tăng trưởng ngành bán dẫn thế giới khoảng 10-12%. Tại Việt Nam, tỷ lệ hiện khoảng 15-17%, cao hơn mức trung bình thế giới, do xuất phát điểm thấp. Đây chính là đầu ra của 50.000 kỹ sư bán dẫn mà chúng ta đang kỳ vọng. Bên cạnh đó, tính chung là kỹ sư bán dẫn, nhưng trừ phần thiết kế, các khâu còn lại như đóng gói kiểm thử hay sản xuất, vật liệu vốn là những chuyên ngành cơ bản, có thể sử dụng được trong nhiều ngành nghề khác nhau. - Với tiến độ như hiện nay, ông đánh giá ra sao về tính khả thi của mục tiêu đào tạo 50.000 kỹ sư? - Thời gian qua, Việt Nam chủ yếu triển khai các khóa học ngắn hạn, kéo dài ba tháng, để chuyển đổi nhanh lượng học viên có nền tảng kỹ thuật tốt sang làm bán dẫn, từ những chuyên ngành gần. Sau khi được đào tạo, họ có thể đi làm luôn. Đây là cách bổ sung nhân lực bán dẫn vừa nhanh vừa tiết kiệm mà Việt Nam có thể ưu tiên. Với hệ chính quy, đến tháng 3, Việt Nam mới có chuẩn đào tạo ngành vi mạch bán dẫn trình độ đại học và sau đại học. Trước đó chỉ một số ít trường có chuyên ngành gần, với khoảng vài trăm sinh viên ra trường mỗi năm. Kể từ khi có Chương trình, nhiều nơi mở thêm chuyên ngành này, với lượng tuyển sinh đầu vào tốt. Tại nhiều trường, học viên cần có điểm trung bình mỗi môn trên 9 điểm để đỗ vào ngành vi mạch. Khi kết hợp giữa hai hình thức đào tạo ngắn hạn và chính quy, nếu duy trì tốc độ hiện tại, mục tiêu Chính phủ đề ra sẽ đạt theo đúng lộ trình, thậm chí vượt tiến độ. - Việc đào tạo lượng lớn kỹ sư bán dẫn trong thời gian ngắn như vậy liệu có đảm bảo chất lượng? - Tại khóa học mới đây được tổ chức với sự kết hợp giữa NIC, Cadence và FPT, 45 trên 70 học viên sau khi tốt nghiệp đã được các tập đoàn công nghệ lớn như Marvell, Faraday, Viettel... tuyển dụng. Số còn lại đều du học tiếp ở nước ngoài. Trước khi tham gia khóa ngắn hạn, các học viên đều là sinh viên. Điều này cho thấy chất lượng đào tạo của Việt Nam tương đối tốt, kể cả với những khóa ngắn hạn, chuyển đổi. Một học viên chuyên ngành vi mạch bán dẫn đang thực hành thiết kế chip tại Đại học Quốc gia Hà Nội.. Ảnh: ĐHQG HN Điểm yếu của Việt Nam nằm ở cơ sở vật chất. Muốn đào tạo chính quy, hệ đại học phải gắn với một trường thực tế, thực hành. Đây là điều Việt Nam còn thiếu, nên chất lượng sinh viên có một khoảng cách nhất định so với thị trường. Vì thế, cần có giải pháp để thu hẹp giữa nhu cầu thị trường với khả năng đào tạo của Việt Nam. Để giải quyết, Chương trình Phát triển nguồn nhân lực bán dẫn đề cập việc hình thành bốn phòng thí nghiệm trọng điểm cấp quốc gia, dùng chung, đặt tại Đại học quốc gia TP HCM, Đại học quốc gia Hà Nội, thành phố Đà Nẵng và Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia. Bộ Tài chính đã tổng hợp nhu cầu, và dự kiến triển khai vào năm 2026. Chúng ta cũng thiếu giảng viên đạt chuẩn quốc tế. Không có thầy giỏi, không thể có trò giỏi. Do đó, Việt Nam cần thúc đẩy hợp tác quốc tế, gửi giảng viên đi đào tạo, đồng thời triển khai học bổng bán phần, toàn phần cho sinh viên xuất sắc học ở nước ngoài. Khi khắc phục được hai điểm này, chất lượng kỹ sư bán dẫn Việt Nam sẽ còn tăng mạnh. - Việt Nam từng xảy ra tình trạng "thừa thầy, thiếu thợ". Ngành bán dẫn liệu có lặp lại sai lầm đó khi nói đến kỹ sư mà quên đội ngũ kỹ thuật viên, công nhân lành nghề? - Điều đó sẽ không xảy ra, bởi Việt Nam đào tạo song song cả hai nhóm. Chương trình tập trung đào tạo kỹ sư, cử nhân, ở bậc đại học. Bên cạnh đó, cũng có khóa đào tạo kỹ thuật viên riêng, do các trường cao đẳng, dạy nghề thực hiện. Tuy nhiên, cần nói thêm rằng, mục tiêu của Việt Nam là tham gia vào phân khúc cao của chuỗi giá trị ngành công nghiệp bán dẫn, không chỉ dừng lại ở công đoạn lắp ráp, kiểm thử. Khác với ngành công nghiệp khác, đặc thù của công nghiệp bán dẫn là lao động trình độ sau đại học, tức bậc thạc sĩ, tiến sĩ phải chiếm tỷ lệ 70% trở lên. Muốn tham gia sâu vào chuỗi giá trị, Việt Nam phải có đội ngũ trí thức trình độ cao. Nếu không, chúng ta chỉ dừng lại ở công việc của người gia công, tham gia vào phần giá trị thấp, làm công xưởng của thế giới. Định hướng của Việt Nam là bước lên vai trò người kiến tạo - tạo ra cuộc chơi. Muốn lên "tầng ba", phải có năng lực tương đương người ở tầng đó. Không thể lấy năng lực "tầng một" mà muốn chơi với "tầng ba" được. - Ông hình dung bức tranh ngành bán dẫn Việt Nam ra sao sau 5 năm nữa? - Nếu Chương trình thành công, đến 2030, Việt Nam sẽ có ít nhất 50.000 kỹ sư, 15-20 nhà máy đóng gói, kiểm thử, sản xuất vật liệu và thiết bị cho ngành bán dẫn. Nếu có thêm một nhà máy chế tạo chip sẽ là một thành công lớn. Việc này rất khó, tốn kém, nhưng là cơ sở để Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi giá trị. Nhờ động lực từ ngành bán dẫn và các lĩnh vực công nghệ cao, Việt Nam đang có quan hệ hợp tác chặt chẽ với nhiều quốc gia và vùng kinh tế lớn như Anh, Pháp, Italy, Áo, Hà Lan, Bỉ, cũng như với đảo Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật Bản. Đây là tín hiệu tích cực, cho thấy khi Việt Nam "phất ngọn cờ", thể hiện rõ quyết tâm đồng hành cùng thế giới, các đối tác đều chủ động đáp lại, sẵn sàng hợp tác trên tinh thần cùng có lợi. Không phải ngẫu nhiên họ tìm đến, mà vì họ thấy Việt Nam có khát vọng, mục tiêu rõ ràng và thể hiện sự chủ động trong cách tiếp cận. Khi hai bên cùng nhìn thấy lợi ích và chia sẻ mục tiêu, mối quan hệ hợp tác sẽ trở nên bền vững hơn - nền tảng để Việt Nam bước sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Chương trình Phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, định hướng đến 2050 được Chính phủ ban hành tháng 9/2024, trong đó đặt mục tiêu đào tạo ít nhất 50.000 nhân lực trình độ đại học trở lên, đồng thời xây dựng bốn phòng thí nghiệm bán dẫn quốc gia và 18 phòng thí nghiệm cấp cơ sở phục vụ đào tạo và nghiên cứu. Chương trình đề ra 7 nhóm giải pháp, gồm cơ chế chính sách, đầu tư hạ tầng, tổ chức đào tạo, nghiên cứu - phát triển, xây dựng hệ sinh thái và mở rộng hợp tác quốc tế, nhằm đưa Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi giá trị bán dẫn toàn cầu vào năm 2050. Trọng Đạt 'Số doanh nghiệp bán dẫn tại Việt Nam tăng gấp đôi sau ba năm' Tự chủ sản xuất chip để bảo đảm an ninh công nghệ Việt Nam Robot, chip, máy bay UAV quy tụ trong triển lãm Make in Viet Nam Adblock test (Why?)Nguồn VNExpress