Lãnh đạo Khoa học và Công nghệ qua các thời kỳ

Discussion in 'Tin tức - Đồ chơi số' started by bboy_nonoyes, Sep 3, 2025 at 12:22 AM.

  1. bboy_nonoyes

    bboy_nonoyes Administrator Staff Member

    (Lượt xem: 6)

    Thành lập từ năm 1958, cơ quan quản lý khoa học công nghệ Việt Nam trải qua ba giai đoạn, nhiều lần đổi tên và chia tách, với hơn 10 lãnh đạo dẫn dắt.


    Sau 80 năm giành độc lập và 50 năm thống nhất đất nước, Việt Nam đã có nhiều thành tựu nổi bật về kinh tế, xã hội, có vị thế và uy tín trên trường quốc tế. Trong đó, lĩnh vực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo liên tục hoàn thiện, trở thành động lực phát triển cho đất nước.

    Năm 1958, miền Bắc hoàn thành nhiệm vụ khôi phục kinh tế, bắt đầu phát triển kinh tế theo con đường chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện thành công ba cuộc cách mạng: Cách mạng quan hệ sản xuất, Cách mạng kỹ thuật và Cách mạng tư tưởng và văn hóa, Việt Nam cần nhanh chóng đưa những tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đời sống và quốc phòng.

    Nghị quyết hội nghị lần thứ 14 của BCH Trung ương Đảng khóa II diễn ra tháng 11/1958 nhấn mạnh vai trò của khoa học kỹ thuật và sự cần thiết của việc thành lập Uỷ ban Khoa học Nhà nước. Tháng 12/1958, Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ thông qua việc thành lập Uỷ ban Khoa học Nhà nước, tiền thân của Bộ Khoa học và Công nghệ ngày nay.

    Trải qua nhiều lần đổi tên với ba giai đoạn phát triển (1954-1975, 1975-1986 và 1986 đến nay), lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo của Việt Nam đạt nhiều thành tựu, phục vụ đời sống sản xuất của người dân cũng như an ninh quốc phòng, cũng như tạo vị thế trên thế giới.

    Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước Trường Chinh


    [​IMG]

    Ông Trường Chinh. Ảnh: MST


    Ông Trường Chinh (1907-1988) là một trong những người đã chỉ đạo trực tiếp việc hình thành Ủy ban Khoa học Nhà nước, và là chủ nhiệm đầu tiên của Ủy ban, từ tháng 12/1958 đến 7/1960. Giai đoạn đó, ông luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của khoa học trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt chú trọng phát triển khoa học, giáo dục để phục vụ công cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước.

    Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước Võ Nguyên Giáp


    [​IMG]

    Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ảnh: MST


    Cùng với tài quân sự, Đại tướng Võ Nguyên Giáp (1911-2013) còn chú trọng đến khoa học kỹ thuật. Từ tháng 7/1960 đến tháng 1/1963, ông kiêm nhiệm chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước, đưa ra nhiều kiến nghị sâu sắc về đổi mới quản lý khoa học và giáo dục, đồng thời định hướng phát triển khoa học kỹ thuật trong các giai đoạn sau, như xây dựng chiến lược khoa học biển, kinh tế biển và vấn đề môi trường.

    Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước Nguyễn Duy Trinh


    [​IMG]

    Ông Nguyễn Duy Trinh. Ảnh: MST


    Ông Nguyễn Duy Trinh (1910-1985) là một trong những lãnh đạo chủ chốt, gắn liền với lĩnh vực ngoại giao và khoa học kỹ thuật. Ông đảm nhiệm vị trí Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước từ tháng 1/1963 đến 10/1965, được đánh giá luôn sâu sát thực tiễn, có nhiều đóng góp quan trọng vào chiến lược, sách lược về phát triển kinh tế và cải tạo xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học sát với từng vùng, miền và trong từng thời điểm cách mạng.

    Chủ nhiệm Ủy ban KHKT Nhà nước Trần Đại Nghĩa


    [​IMG]

    Ông Trần Đại Nghĩa. Ảnh: MST


    Từ năm 1965, miền Bắc chuyển hướng xây dựng và phát triển kinh tế phù hợp với điều kiện chiến tranh, vừa tập trung phát triển sản xuất để bảo đảm đời sống nhân dân, vừa tăng cường tiềm lực kinh tế và quốc phòng. Tình hình khoa học kỹ thuật có tiến bộ rõ rệt với đội ngũ cán bộ khoa học từng bước lớn mạnh, cơ sở nghiên cứu, trường đại học, trung học chuyên nghiệp được hình thành và gia tăng số lượng, nghiên cứu ứng dụng và phong trào sáng kiến cải tiến kỹ thuật ngày càng mở rộng. Tuy nhiên, so với yêu cầu to lớn, tiềm lực và trình độ khoa học và kỹ thuật khi đó vẫn hạn chế, gặp nhiều trở ngại, khó khăn trong điều kiện chiến tranh.

    Năm 1965, Ủy ban Khoa học Nhà nước tách ra thành Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật (KHKT) Nhà nước và Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Giáo sư Trần Đại Nghĩa (1913-1997) giữ vị trí Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước giai đoạn 10/1965 - 2/1977. Trong gần 12 năm, ông đóng góp quan trọng trong việc phát triển khoa học và kỹ thuật trong bối cảnh đất nước đối mặt nhiều thiếu thốn về cán bộ, cơ sở vật chất và kinh phí, tập trung vào việc tổ chức, nghiên cứu và định hướng phát triển các ngành khoa học.

    Sau giai đoạn Kháng chiến giành độc lập 1954-1975, cả nước bước vào công cuộc tái thiết và xây dựng đất nước thống nhất 1975-1986.

    Chủ nhiệm Ủy ban KHKT Nhà nước Trần Quỳnh


    [​IMG]

    Ông Trần Quỳnh. Ảnh: MST


    Ông Trần Quỳnh (1920-2005) giữ vai trò Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước giai đoạn 1965-1976 trước khi được bầu làm Chủ nhiệm vào tháng 2/1977. Ông chức vụ này đến tháng 2/1980, đóng vai trò quản lý, điều phối và thúc đẩy nghiên cứu khoa học. Ông tham gia ký quyết định thành lập Trung tâm Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng nhà nước khu vực II, tiền thân của QUATEST 2 ngày nay.

    Chủ nhiệm Ủy ban KHKT Nhà nước Lê Khắc


    [​IMG]

    Ông Lê Khắc. Ảnh: MST


    Ông Lê Khắc (1916-1990) đảm nhiệm vị trí Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước từ tháng 2/1980 đến 4/1982. Trước đó, năm 1965, ông được bổ nhiệm làm Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước, kiêm trưởng Ban Cơ học. Trong giai đoạn này, Ủy ban dần hoàn thiện, tiến tới kiện toàn và thành lập các tổ chức trực thuộc mới ở lĩnh vực tiêu chuẩn đo lường chất lượng, sở hữu trí tuệ, năng lượng nguyên tử, quản lý khoa học và kỹ thuật địa phương.

    Chủ nhiệm Uỷ ban KHKT Nhà nước Đặng Hữu


    [​IMG]

    Ông Đặng Hữu. Ảnh: MST


    Giáo sư Đặng Hữu (sinh năm 1930) giữ vai trò Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước từ tháng 4/1982-11/1996. Ông giữ cương vị đứng đầu ngành khoa học công nghệ lâu nhất trong các giai đoạn chuyển tiếp. Với gần 8 năm là Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học - Kỹ thuật Nhà nước (4/1982-3/1990), gần ba năm là Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước sau khi đổi tên (4/1990-9/1992). Giai đoạn này Ủy ban Khoa học Nhà nước cũng đổi tên thành Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, và ông đảm nhiệm chức Bộ trưởng bốn năm (từ tháng 10/1992 đến tháng 11/1996).

    Trong những năm đầu 1990, ông đề xuất và được Chính phủ chấp thuận xây dựng bốn Nghị quyết về phát triển Công nghệ Thông tin, Công nghệ Sinh học, Công nghệ Vật liệu mới và Công nghệ Tự động hóa - đều là tiền đề cho việc phát triển của bốn ngành quan trọng. Ông cũng kiện toàn hệ thống nghiên cứu nhà nước, tham gia vận động mở Internet (1994) và quá trình kết nối chính thức ngày 19/11/1997.

    Bộ trưởng Khoa học, Công nghệ và Môi trường Phạm Gia Khiêm


    [​IMG]

    Ông Phạm Gia Khiêm. Ảnh: MST


    Ông Phạm Gia Khiêm (sinh năm 1944) là Bộ trưởng Khoa học, Công nghệ và Môi trường từ tháng 11/1996 đến 10/1997. Thừa hưởng loạt chính sách về khoa học và công nghệ từ giai đoạn của GS Đặng Hữu, trong gần một năm, ông tiếp tục hỗ trợ triển khai các chương trình quốc gia về công nghệ, đặc biệt trong quản lý nhà nước và giáo dục, cũng như thúc đẩy Luật Khoa học và Công nghệ (ban hành năm 2000).

    Bộ trưởng Khoa học, Công nghệ và Môi trường Chu Tuấn Nhạ


    [​IMG]

    Ông Chu Tuấn Nhạ. Ảnh: MST


    Ông Chu Tuấn Nhạ (sinh năm 1939) giữ vị trí Bộ trưởng Khoa học, Công nghệ và Môi trường từ tháng 10/1997 đến 8/2002. Ông thúc đẩy Luật Khoa học và Công nghệ ra đời, tạo cơ sở pháp lý cho các luật sau đó như Sở hữu trí tuệ, Chuyển giao công nghệ, Công nghệ cao... Giai đoạn này ông cũng chỉ đạo triển khai các chương trình khoa học công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước về nông nghiệp, công nghiệp, y tế, môi trường, ứng dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất thay vì chỉ nghiên cứu hàn lâm.

    Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Hoàng Văn Phong


    [​IMG]

    Ông Hoàng Văn Phong. Ảnh: MST


    Tháng 8/2002 lĩnh vực môi trường được chuyển sang Bộ Tài nguyên và Môi trường, thành lập Bộ Khoa học và Công nghệ. GS Hoàng Văn Phong (sinh năm 1948) giữ vai trò Bộ trưởng từ tháng 8/2002 đến tháng 8/2011. Trong chín năm ở cương vị Bộ trưởng, ông thúc đẩy mạnh mẽ trong việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, thành lập một số đơn vị, tổ chức khoa học công nghệ mới, thúc đẩy hội nhập với các nước phát triển cũng như tăng sức mạnh khoa học công nghệ thông qua doanh nghiệp.

    Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân


    [​IMG]

    Ông Nguyễn Quân. Ảnh: MST


    Ông Nguyễn Quân (sinh năm 1955) đứng đầu Bộ Khoa học và Công nghệ từ tháng 8/2011 đến 4/2016. Trong giai đoạn đó, Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013 và một số Nghị định được thông qua. Ông cũng quan tâm thúc đẩy xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo với tầm nhìn rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho hơn 3.000 doanh nghiệp khoa học và công nghệ phát triển.

    Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt


    [​IMG]

    Ông Huỳnh Thành Đạt. Ảnh: MST


    Ông Huỳnh Thành Đạt (sinh năm 1962) giữ chức Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ giai đoạn 2020-2025. Ông được đánh giá luôn quan tâm thúc đẩy nghiên cứu khoa học cơ bản vì sự phát triển dài hạn, bền vững của đất nước. Ông cũng ưu tiên hoàn thiện cơ chế, thể chế mô hình Quỹ phát triển công nghệ quốc gia theo hướng đạt chuẩn quốc tế, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, gắn kết hoạt động khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo.

    Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng


    [​IMG]

    Ông Nguyễn Mạnh Hùng. Ảnh: Giang Huy


    Ông Nguyễn Mạnh Hùng (sinh năm 1962) là Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ đầu tiên sau hợp nhất với Bộ Thông tin và Truyền thông vào tháng 3/2025. Bộ mới được xác định có sứ mệnh quan trọng, đưa Việt Nam vào giai đoạn phát triển mới - giai đoạn phát triển dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, giai đoạn phát triển từ thu nhập trung bình cao trở thành thu nhập cao.

    Trong hơn sáu tháng dẫn dắt, ông định hình lại ngành Khoa học và Công nghệ Việt Nam với các trụ cột chính xoay quanh khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, sở hữu trí tuệ và tiêu chuẩn - đo lường - chất lượng. Ông ghi dấu với tuyên bố đổi mới sáng tạo sẽ đóng góp tới 3% GDP cho Việt Nam trong những năm tới, yêu cầu sở hữu trí tuệ phải biến nghiên cứu thành tài sản, hay dùng tiêu chuẩn để dẫn dắt quốc gia.

    Ngoài ra, Bộ trưởng cũng đưa ra định hướng xác định Việt Nam chuyển từ một quốc gia sử dụng công nghệ lõi sang làm chủ các công nghệ chiến lược, tham mưu với Chính phủ công bố 11 nhóm công nghệ chiến lược vào tháng 6, đồng thời chuyển trọng tâm phát triển công nghệ về doanh nghiệp, chuyển nghiên cứu cơ bản về các cơ sở giáo dục đại học.

    Trong vòng bốn tháng sau sáp nhập, năm luật quan trọng do Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng trực tiếp chỉ đạo đã hoàn thiện, trở thành nền tảng cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số Việt Nam, tạo tiền đề cho thực hiện Nghị quyết 57. Trong năm nay, Bộ Khoa học và Công nghệ tiếp tục xây dựng thêm 4 luật, gồm: Chuyển đổi số, Công nghệ cao, Sở hữu trí tuệ và Chuyển giao công nghệ, hoàn thành các mảnh ghép trong hệ sinh thái khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số cho Việt Nam.

    "Khoa học công nghệ mà hưng thịnh thì quốc gia mới hưng thịnh. Khoa học công nghệ mà mạnh thì quốc gia mới mạnh. Khoa học công nghệ không phải vì khoa học công nghệ mà phải vì sự hưng thịnh quốc gia, đóng góp cho nhân loại. Một quốc gia muốn trở thành cường quốc thì phải là cường quốc khoa học công nghệ. Một quốc gia muốn trở thành nước phát triển thì phải là một quốc gia có khoa học công nghệ phát triển", Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng khẳng định.

    Theo Bộ KH&CN


    Góp ý kiến tạo

    Bạn có thể đặt mọi câu hỏi, vấn đề về Khoa học công nghệ, Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi số trực tiếp cho Bộ Khoa học và Công nghệ

    Gửi góp ý

    Adblock test (Why?)
    Theo Trang Công Nghệ
     
  2. Facebook comment - Lãnh đạo Khoa học và Công nghệ qua các thời kỳ

Share This Page