Những chuyển dịch quan trọng để đưa Việt Nam vào giai đoạn phát triển mới

Discussion in 'Khám phá - Phát minh' started by bboy_nonoyes, Jul 16, 2025 at 10:43 PM.

  1. bboy_nonoyes

    bboy_nonoyes Administrator Staff Member

    (Lượt xem: 19)

    Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, Bộ Khoa học và Công nghệ có sứ mệnh quan trọng là đưa Việt Nam vào giai đoạn phát triển mới dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

    Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng phát biểu tại Hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2025 của Bộ Khoa học và Công nghệ (Bộ KH&CN), sáng 14/7.


    [​IMG]

    Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng làm việc với khối Chuyển đổi số ngày 11/7. Ảnh: Đức Huy


    Bộ KH&CN mới trên cơ sở hợp nhất Bộ TT&TT và Bộ KH&CN đã hoạt động được 3 tháng rưỡi. Bộ có sứ mệnh quan trọng là đưa Việt Nam vào giai đoạn phát triển mới, giai đoạn phát triển dựa trên khoa học công nghệ (KHCN), đổi mới sáng tạo (ĐMST) và chuyển đổi số (CĐS), giai đoạn phát triển từ thu nhập trung bình trở thành thu nhập cao.

    Để làm được việc đó, chúng ta phải có những chuyển dịch quan trọng.

    Bưu chính phải trở thành hạ tầng logistics để đảm bảo dòng chảy vật chất bên cạnh dòng chảy dữ liệu, đảm bảo dòng chảy vật chất nhanh, chính xác và an toàn đến tận tay doanh nghiệp và người tiêu dùng. Càng CĐS mạnh mẽ bao nhiêu thì tải lên mạng lưới bưu chính càng tăng bấy nhiêu.

    Viễn thông trở thành hạ tầng số phục vụ cho CĐS. Hạ tầng số trở thành hạ tầng chiến lược như là giao thông và điện. Hạ tầng này phải phổ cập, băng thông siêu rộng, dung lượng siêu lớn, xanh và an toàn. Hạ tầng số trở thành hạ tầng của cả nền kinh tế. Phủ sóng 5G sâu và rộng toàn quốc là nhiệm vụ cấp bách từ nay đến cuối năm. Tốc độ di động phải đạt 100 Mbps, tốc độ cố định 200 Mbps.

    CĐS với các cấu phần Chính phủ số (CPS), kinh tế số (KTS) và xã hội số (XHS) là để Việt Nam trở thành quốc gia số, tạo thành một phiên bản số của thế giới thực và đảm bảo sự ánh xạ 1-1 của hai thế giới thực và số. CĐS là số hóa toàn diện, rồi sử dụng công nghệ số, nhất là AI để xử lý dữ liệu số, nhưng thay đổi mô hình hoạt động mới là công đoạn quan trọng nhất để phát huy hiệu quả CĐS. Chi ngân sách nhà nước cho CĐS là 1% thì phải kéo theo xã hội chi cho CĐS gấp 3-4 lần như vậy, và CĐS phải tạo ra tăng trưởng kinh tế từ 1-1,5%.

    KHCN phải hướng tới kết quả cuối cùng là nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng trưởng kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. Nhà nước chi một đồng cho nghiên cứu thì kết quả nghiên cứu này đến doanh nghiệp phải tạo ra 10 đồng doanh thu mới. Một đồng nhà nước chi cho NCPT cũng phải kéo theo được 3-4 đồng của doanh nghiệp chi cho NCPT. KHCN phải đóng góp 1% vào tăng trưởng kinh tế.

    Nhà khoa học bây giờ không chỉ dừng lại ở học hàm, học vị, ở bài báo hay giải thưởng mà quan trọng là, kết quả nghiên cứu của mình phải có tác động đến KT-XH của đất nước.

    ĐMST là con đường để Việt Nam đưa KHCN ứng dụng vào cuộc sống. Ứng dụng công nghệ, đổi mới công nghệ, chuyển giao công nghệ, nâng cao hiệu suất sử dụng công nghệ, cải tiến công nghệ và tiến tới sáng tạo công nghệ là con đường dùng công nghệ để tăng năng suất lao động, tăng TFP. ĐMST phải giúp Việt Nam tăng trưởng 3% GDP. Mỗi bộ ngành, mỗi địa phương phải có một trung tâm ĐMST.

    Chuyển dịch quan trọng nhất của Sở hữu trí tuệ (SHTT) là chuyển dịch từ bảo vệ quyền sang tài sản hóa, thương mại hóa và thị trường hóa các kết quả nghiên cứu. Một quốc gia phát triển là quốc gia có tới 80% tài sản là tài sản trí tuệ, bởi vậy, phát triển, giao dịch và bảo vệ tài sản trí tuệ, chống trộm cắp, là trọng tâm của một quốc gia muốn phát triển. Một xã hội trộm cắp nhiều là một xã hội không phát triển. Để trộm cắp về tài sản trí tuệ tràn lan sẽ không có sáng tạo trí tuệ, sẽ không có KHCN/ĐMST. Ăn cắp ý tưởng, sáng chế cũng như ăn cắp trong xã hội, là vấn đề vi phạm đạo đức xã hội, cần phải bị lên án và trừng phạt. Chúng ta cần xây dựng nhận thức xã hội, đạo đức xã hội, văn hóa xã hội về SHTT.

    Trọng tâm của lĩnh vực năng lượng nguyên tử thời gian tới là điện hạt nhân thế hệ mới, lò hạt nhân module qui mô nhỏ. Điện hạt nhân trở thành điện xanh và điện nền, trở thành chiến lược quốc gia và Việt Nam phải làm chủ công nghệ hạt nhân.

    Tiêu chuẩn là định hướng phát triển quốc gia. Quy chuẩn là hàng rào bảo vệ quốc gia. Số lượng tiêu chuẩn cần thiết cho sự phát triển đất nước mới đạt chưa tới 5%. Phải đổi mới rất mạnh mẽ công tác tiêu chuẩn hóa theo hướng hội nhập quốc tế.

    Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV vừa qua đã thông qua 5 luật sửa đổi liên quan đến KHCN, là Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, Luật Công nghiệp công nghệ số, Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa và Luật Năng lượng nguyên tử. Các nghị định và thông tư liên quan, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật sẽ được ban hành ngay trong năm 2025 để có hiệu lực cùng ngày với các luật.

    Các luật này có nhiều đổi mới quan trọng. Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chuyển từ quản lý quá trình sang quản lý đầu ra, gắn nghiên cứu với ứng dụng, lấy ĐMST là động lực đưa tri thức vào thực tiễn, xây dựng đại học thành các trung tâm nghiên cứu KHCN và doanh nghiệp là trung của hệ thống ĐMST.

    Luật Công nghiệp công nghệ số xác lập ngành công nghiệp công nghệ số là một ngành kinh tế trọng điểm, mở rộng phạm vi điều chỉnh sang dữ liệu, nền tảng số, AI, chip bán dẫn, tài sản số, kinh tế số, chú trọng tự cường thông qua phát triển doanh nghiệp công nghệ số Make in Vietnam.

    Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật xác định tiêu chuẩn là định hướng phát triển quốc gia, thúc đẩy năng suất, chất lượng và đổi mới; quy chuẩn là hàng rào bảo vệ quốc gia, bảo vệ sức khỏe, môi trường, an ninh, chủ quyền kỹ thuật.

    Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa chuyển từ tư duy tiền kiểm là chính sang hậu kiểm dựa trên rủi ro, nhằm bảo vệ người tiêu dùng, giảm gánh nặng cho doanh nghiệp, thúc đẩy đổi mới và hội nhập quốc tế. Quy định về chuyển đổi số toàn diện, kết nối dữ liệu giữa các bộ ngành và địa phương để xây dựng một nền tảng số quốc gia về chất lượng, thực hiện hậu kiểm trên môi trường số.

    Luật Năng lượng nguyên tử tạo hành lang pháp lý để triển khai nhanh nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận, mở rộng ứng dụng năng lượng nguyên tử sang các lĩnh vực khác, xác định việc làm chủ công nghệ hạt nhân, nhất là công nghệ điện hạt nhân thế hệ mới, lò hạt nhân module qui mô nhỏ, nhằm đảm bảo điện linh hoạt cho CĐS xanh.

    Từ nay đến cuối năm 2025, Bộ KH&CN sẽ phải hoàn thành và thông qua 4 luật, bao gồm một luật mới và ba luật sửa đổi, đó là: Luật Chuyển đổi số, Luật Công nghệ cao (CNC), Luật Chuyển giao công nghệ và Luật Sở hữu trí tuệ.

    Như vậy chỉ riêng năm 2025, Bộ KH&CN là cơ quan chủ trì soạn thảo 9 luật liên quan đến KHCN, ĐMST và CĐS. Trước đây, một khóa 5 năm mà thông qua 1-2 luật đã là nhiều. Với số lượng lớn các luật phải soạn thảo, và trên tinh thần đổi mới mạnh mẽ của Nghị quyết 57, đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực rất lớn, quyết tâm rất cao, có cách làm mới, và làm việc không kể ngày đêm mới có thể hoàn thành.

    Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đã tạo thông thoáng cho hoạt động nghiên cứu với mục tiêu là tạo ra nhiều kết quả nghiên cứu có giá trị, thì Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi phải biến các kết quả nghiên cứu này thành tài sản trí tuệ để giao dịch được, khi đó mới có thị trường KHCN. Các vấn đề mà Luật SHTT sửa đổi phải xử lý là, SHTT phải trở thành công cụ chiến lược để bảo vệ và chiếm lĩnh công nghệ, IP là công cụ cạnh tranh công nghệ, SHTT phải gắn kết chặt chẽ với nghiên cứu phát triển (NCPT), ĐMST, phát triển trong môi trường số và công nghệ mới.

    Luật Công nghệ cao sửa đổi là để tạo ra mảnh đất phát triển công nghệ cao, sản xuất ra công nghệ cao. CNC bây giờ là chiến lược tự chủ công nghệ và chủ quyền số của một quốc gia. CNC là trụ cột chiến lược an ninh kinh tế, quốc phòng an ninh và năng lực cạnh tranh quốc gia. Đổi mới căn bản của Luật CNC là các ưu đãi cho nhà đầu tư sẽ dựa trên mức độ chuyển giao công nghệ, mức độ nội địa hóa, mức độ R&D tại Việt Nam; khu CNC chuyển đổi thành đô thị CNC, với đầy đủ các tiện ích sống thì mới thu hút được nhà khoa học tài năng đến đó. Khu Phố Đông của thành phố Thượng Hải dành tới 90 km2 (tức 9.000 ha), để xây dựng khu đô thị KHCN, với 400.000 người sinh sống và làm việc, trở thành Silicon Valley của Trung Quốc.

    Thương mại hóa kết quả nghiên cứu vốn là khâu yếu của chúng ta. Nhưng nếu không giải quyết được câu chuyện này thì kết quả nghiên cứu sẽ không đến được doanh nghiệp để tạo ra sản phẩm, doanh thu, không tác động được vào nền kinh tế. Luật Chuyển giao công nghệ sửa đổi là nhằm đưa công nghệ tới doanh nghiệp, đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp, để doanh nghiệp góp phần tăng năng suất lao động và tăng trưởng kinh tế. Sắp tới, đất nước sẽ có nhiều dự án lớn quốc gia, chúng ta muốn thông qua các dự án lớn này để hình thành các ngành công nghiệp trong nước, muốn các doanh nghiệp Việt Nam nhận chuyển giao từ đối tác nước ngoài để làm chủ công nghệ. Luật Chuyển giao công nghệ sửa đổi sẽ tạo khung pháp lý thuận lợi hơn nữa cho chuyển giao công nghệ (không chỉ từ nước ngoài vào Việt Nam mà còn là giữa viện trường và doanh nghiệp trong nước), đồng thời ngăn chặn các công nghệ lạc hậu vào Việt Nam, bảo vệ môi trường.

    CĐS đã thấm sâu vào hoạt động hàng ngày của đất nước nhưng chúng ta chưa có luật về CĐS. BCĐ 57 đã quyết định giao xây dựng và thông qua Luật CĐS trong kỳ họp thứ 10 của Quốc hội cuối năm nay. Luật này sẽ lấp đầy các mảnh ghép còn thiếu và là một luật khung để thống nhất, kết nối các luật liên quan CĐS do các bộ ngành chủ trì soạn thảo, nhằm hình thành một khung kiến trúc Việt Nam số hoàn chỉnh. Luật CĐS xác định vai trò của nhà nước trong thúc đẩy CĐS là dẫn dắt, tạo điều kiện và giám sát; tạo cơ chế quản lý dữ liệu số; khung thể chế cho nền tảng số và dịch vụ số; tài chính cho CĐS; văn hóa số; phát triển nhân lực, kỹ năng số, coi ngôn ngữ số như ngôn ngữ thứ ba bên cạnh tiếng Việt để giữ gìn bản sắc và tiếng Anh để hội nhập, để mỗi người Việt Nam thành thạo 3 ngôn ngữ này như biết đọc, biết viết; quản trị rủi ro trong quá trình CĐS và bảo đảm an toàn không gian số; giám sát và đánh giá hiệu quả CĐS.

    Với 9 luật thông qua năm 2025 và 3 luật đã ban hành trước đó là Luật Viễn thông, Luật Tần số, Luật Giao dịch điện tử, và các luật chuyên ngành, Bộ KH&CN hy vọng hành lang pháp lý về KHCN đã thông thoáng cho thúc đẩy KHCN/ĐMST/CĐS. Nếu có vướng mắc trong quá trình thực thi, chúng ta đã có cơ chế Chính phủ ban hành nghị định tháo gỡ khó khăn pháp lý trong 2 năm, trước khi báo cáo Quốc hội sửa luật, giống như một loại sandbox thể chế.

    Bây giờ là lúc chúng ta hãy làm, làm thật nhiều, làm những việc lớn, hướng đến kết quả cuối cùng là tăng trưởng kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, nâng cao năng lực quản trị quốc gia để bộc lộ các khó khăn và tiếp tục tháo gỡ.

    Một số định hướng

    Về bưu chính: Ban hành tiêu chuẩn về dịch vụ bưu chính, tiến hành đo lường và công bố công khai. Mục tiêu là chuẩn hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ bưu chính.

    Về viễn thông: Xóa vùng lõm sóng, phủ sóng 5G toàn quốc, nâng cao chất lượng phủ sóng di động với tốc độ di động đạt 100Mbps, tăng gấp đôi so với 4G. Tốc độ cố định băng rộng 200 Mbps. Cung cấp dịch vụ vệ tinh tầm thấp.

    Về công nghiệp công nghệ số: Xác lập ngành công nghiệp CNS là một ngành kinh tế trọng điểm, mở rộng phạm vi điều chỉnh sang dữ liệu, nền tảng số, AI, chip bán dẫn, tài sản số, kinh tế số, chú trọng tự cường thông qua phát triển doanh nghiệp công nghệ số Make in Vietnam. Doanh nghiệp CNS Việt Nam phải có năng lực cạnh tranh quốc tế, với doanh thu từ thị trường nước ngoài tiếp tục tăng trưởng cao 20-30%, để chậm nhất đến năm 2035, xuất khẩu CNS của Việt Nam phải lớn hơn xuất khẩu nông nghiệp.

    Về CĐS: CĐS đã thấm sâu vào hoạt động hàng ngày của đất nước nhưng chúng ta chưa có luật về CĐS. BCĐ 57 đã quyết định giao xây dựng và thông qua luật CĐS trong kỳ họp thứ 10 vào cuối năm nay. Luật này sẽ xác định vai trò của nhà nước trong thúc đẩy CĐS là dẫn dắt, tạo điều kiện và giám sát; tạo cơ chế quản lý dữ liệu số; khung thể chế cho nền tảng số và dịch vụ số; tài chính cho CĐS; phát triển nhân lực, kỹ năng số, coi ngôn ngữ số như ngôn ngữ thứ ba bên cạnh tiếng Việt để giữ gìn bản sắc và tiếng Anh để hội nhập, để mỗi người Việt Nam thành thạo 3 ngôn ngữ này như biết đọc, biết viết; quản trị rủi ro trong quá trình CĐS và bảo đảm an toàn không gian số; Giám sát và đánh giá hiệu quả CĐS.

    Về KHCN và ĐMST, tôi xin nói về 10 đổi mới quan trọng đã được thể hiện trong Luật KH, CN và ĐMST.

    Về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật: Xác định tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật xác định tiêu chuẩn là định hướng phát triển quốc gia, thúc đẩy năng suất, chất lượng và đổi mới; quy chuẩn là hàng rào bảo vệ quốc gia, bảo vệ sức khỏe, môi trường, an ninh, chủ quyền kỹ thuật.

    Về chất lượng sản phẩm, hàng hóa: Đây là vấn đề bảo vệ giống nòi, là thương hiệu quốc gia. Chuyển từ tư duy tiền kiểm là chính sang hậu kiểm dựa trên rủi ro, nhằm bảo vệ người tiêu dùng, giảm gánh nặng cho doanh nghiệp, thúc đẩy đổi mới và hội nhập quốc tế. Quy định về chuyển đổi số toàn diện, kết nối dữ liệu giữa các bộ ngành để xây dựng một nền tảng số quốc gia về chất lượng, thực hiện hậu kiểm trên môi trường số.

    Về SHTT: SHTT phải biến các kết quả nghiên cứu thành tài sản trí tuệ để giao dịch được, khi đó mới có thị trường KHCN. Chuyển dịch quan trọng nhất của SHTT là chuyển dịch từ bảo vệ quyền sang tài sản hóa, thương mại hóa và thị trường hóa các kết quả nghiên cứu. Một quốc gia phát triển là quốc gia có tới 80% tài sản là tài sản trí tuệ, bởi vậy, phát triển, giao dịch và bảo vệ tài sản trí tuệ là trọng tâm của một quốc gia muốn phát triển.

    Về năng lượng nguyên tử: Việt Nam coi phát triển điện hạt nhân là chiến lược quốc gia, là điện xanh và điện nền. Đặt mục tiêu phải làm chủ công nghệ hạt nhân. Đặc biệt quan tâm đến công nghệ điện hạt nhân thế hệ mới, lò hạt nhân module quy mô nhỏ. Bên cạnh điện hạt nhân là việc thay đổi cách quản lý theo mức độ rủi ro để thúc đẩy ứng dụng năng lượng nguyên tử trong mọi lĩnh vực. Xác định Cục AT bức xạ hạt nhân là cơ quan pháp quy về an toàn bức xạ hạt nhân.

    Về các sở KHCN: 6 tháng cuối năm, các đồng chí tập trung vào các việc sau: sóng di động phủ 100% dân số và đảm bảo chất lượng; mọi dịch vụ công thực hiện trên môi trường số; hoạt động điều hành của tỉnh dựa trên Trung tâm điều hành thông minh; xây dựng TT ĐMST cấp tỉnh, tập trung vào đổi mới và ứng dụng công nghệ, tập trung giải các bài toán của tỉnh mình.

    Về các doanh nghiệp CNS và KHCN: Nhận và làm chủ các công nghệ, sản phẩm chiến lược. Nhận và làm các dự án lớn của quốc gia. Tập trung dùng công nghệ giải các bài toán của đất nước, giúp đất nước phát triển. Tăng trưởng gấp đôi tăng trưởng GDP của cả nước. Đi ra nước ngoài chinh phục thế giới, tăng năng lực cạnh tranh quốc tế.

    Về các viện/trường: Nhận tiền nghiên cứu của nhà nước thì phải thương mại hóa được kết quả nghiên cứu. Một đồng nhà nước chi cho viện thì viện phải tạo ra 0,1-0,2 đồng doanh thu từ thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Doanh nghiệp nhận kết quả nghiên cứu của viện phải tạo ra được 5-10 đồng doanh thu từ sản phẩm dựa trên kết quả nghiên cứu. Viện/trưởng tạo ra tác động kinh tế là khi doanh nghiệp tiếp nhận kết quả nghiên cứu của viện/trường, từ đó tạo ra sản phẩm, bán ra thị trường tạo ra doanh thu thương mại, góp phần vào tăng trưởng kinh tế.

    Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng

    Adblock test (Why?)
    Nguồn VNExpress
     
  2. Facebook comment - Những chuyển dịch quan trọng để đưa Việt Nam vào giai đoạn phát triển mới

Share This Page