Nhà vật lý Gerard 't Hooft đạt được nhiều thành tựu khoa học xuất sắc. Ảnh: Utrecht University. Ngày 9-10/5, giáo sư Gerard 't Hooft đoạt giải Nobel Vật lý năm 1999 và giáo sư Finn E. Kydland, giải Nobel Kinh tế năm 2004, đến tham dự hội thảo Khoa học vì sự phát triển, tổ chức tại Quy Nhơn, Bình Định. GS 'n Hooft nổi tiếng với nghiên cứu về lý thuyết đo, hố đen và trọng lực lượng tử, theo Famous People. Ông sinh ngày 5/7/1946, là con thứ hai trong gia đình trí thức ở Den Helder, lớn lên tại Den Haag, Hà Lan. Bà ông là chị em của Frits Zernike, nhà khoa học đoạt giải Nobel Vật lý năm 1953. Chú ông, Nico van Kampen, là giáo sư vật lý lý thuyết tại Đại học Utrecht. "Một người biết tất cả mọi thứ. Đó được cho là câu trả lời của tôi khi giáo viên hỏi muốn trở thành ai khi lớn lên. Lúc đó khoảng 8 tuổi và điều tôi muốn nói là giáo sư, nhưng tôi vẫn chưa biết tất cả mọi thứ và đã quên mất từ đó. Thực ra ý tôi là nhà khoa học, người khám phá những bí mật của luật tự nhiên", ông chia sẻ trong cuốn sách Les Prix Nobel. Khi hoàn thành bậc tiểu học, 't Hooft tiếp tục theo học trường Dalton Lyceum. Ông tỏ ra xuất sắc trong khoa học và toán nhưng lại gặp khó khăn với các môn ngôn ngữ. Với năng khiếu bộc lộ rõ từ khi còn nhỏ, đặc biệt là vật lý, 't Hooft sớm quyết định sẽ trở thành nhà khoa học. Năm 16 tuổi, ông xuất sắc giành huy chương bạc trong cuộc thi Olympic Toán Hà Lan lần thứ hai. 't Hooft tốt nghiệp trung học năm 1964 rồi trở thành sinh viên vật lý của Đại học Utrecht. Ông muốn được tham dự bài giảng của chú mình, giáo sư Nico van Kampen. Ông cũng tham gia hội sinh viên ưu tú Utrechtsch Studenten Corps và các hoạt động bổ trợ cho việc học. Trong thời gian này, 't Hooft gặp gỡ giáo sư Martinus Veltman, chuyên gia về lý thuyết Yang-Mills mà ông quan tâm. Ông bắt đầu nghiên cứu tiến sĩ dưới sự hướng dẫn của GS Veltman năm 1969 và chọn nghiên cứu tái chuẩn hóa lý thuyết Yang-Mills. Cả hai đã có nhiều phát hiện thú vị sau thời gian hợp tác chặt chẽ. Năm 1972, 't Hooft được trao bằng tiến sĩ với luận án "Quy trình tái chuẩn hóa các trường Yang-Mills". Cùng năm, ông kết hôn với Albertha A. Schik, sinh viên y tại Đại học Utrecht và sau này có hai con gái. Nhà khoa học Martinus Veltman (trái) và Gerard 't Hooft (phải) đoạt giải Nobel Vật lý năm 1999. Ảnh: Nobel Prize. 't Hooft gia nhập Tổ chức Nghiên cứu Hạt nhân châu Âu (CERN) ở Geneva, Thụy Sĩ. Một thời gian ngắn sau, Veltman cũng gia nhập tổ chức này. Hai nhà khoa học tiếp tục hợp tác làm việc. Họ xem xét khả năng tương tác mạnh có thể được miêu tả là lý thuyết Yang-Mills không khối lượng. Lý thuyết này đã được chứng minh là có thể tái chuẩn hóa và có một số đặc tính trái với quan niệm phổ biến về lý thuyết Yang-Mills lúc đó, theo thí nghiệm của 't Hooft. Tuy nhiên, ông không công bố các kết quả nghiên cứu. Cuối cùng, ba nhà khoa học Hugh David Politzer, David Gross, và Frank Wilczek tái phát hiện các kết quả này và công bố năm 1973, theo Nobel Prize. Những năm 1960, các nhà khoa học trình bày lý thuyết điện yếu, lý thuyết quan trọng về điện từ và lực hạt nhân yếu, nhưng không thể đưa ra nền tảng toán học cần thiết. 't Hooft và Veltman đã tái chuẩn hóa lý thuyết này thành công năm 1969. Trong suốt sự nghiệp nghiên cứu, 't Hooft đã nhận được nhiều giải thưởng khoa học danh giá. Năm 1981, ông cùng Victor F. Weisskopf và Freeman J. Dyson được trao giải Wolf Vật lý cho những đóng góp nổi bật trong vật lý lý thuyết, đặc biệt là trong việc phát triển và ứng dụng lý thuyết trường lượng tử. Năm 1995, giáo sư 't Hooft trở thành một trong những người đầu tiên nhận giải Spinoza, giải thưởng cao nhất cho nhà khoa học tại Hà Lan. Ông còn được trao Huy chương Franklin cũng trong năm đó. Đặc biệt, năm 1999, ông và GS Veltman được trao giải Nobel Vật lý nhờ nghiên cứu làm sáng tỏ cấu trúc lượng tử của tương tác điện yếu. Let's block ads! (Why?)Nguồn VNExpress