Theo Asianone Health, rối loạn trầm cảm là một chứng bệnh tâm thần ngày càng phổ biến và người bệnh có xu hướng trẻ hóa. Trên thực tế nhiều người không biết mình đang bị trầm cảm nên không đến gặp bác sĩ để điều trị sớm, bệnh trạng ngày càng trầm trọng. Theo các bác sĩ tâm lý trị liệu, tình trạng trầm cảm xảy ra phổ biến ở nhóm người có thói quen thức khuya ngủ ngày, mệnh danh là "cú đêm". Nhiều bằng chứng khoa học cho thấy hiện tượng rối loạn đồng hồ sinh học chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến trạng thái tâm lý u sầu và rối loạn lo âu, trầm cảm. Ở người bình thường, buổi sáng là thời gian cảm thấy khoan khoái, đầy năng lượng. Ngược lại, với những "cú đêm", phong độ tinh thần tồi tệ vào buổi sáng, mãi đến tối mới cải thiện. Chu kỳ ngủ và thức của họ cũng bị rối loạn, giấc ngủ thường quá dài hoặc quá ngắn. Rối loạn đồng hồ sinh học chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến trạng thái tâm lý u sầu và rối loạn lo âu, trầm cảm. (Ảnh minh họa: Medimetry). Dấu hiệu nhận biết một người bị rối loạn trầm cảm: Gặp vấn đề về giấc ngủ Người bị trầm cảm rất khó vào giấc ngủ, thường thức giấc giữa đêm không ngủ lại được, hoặc thức dậy từ 2-3h sáng, kèm theo cảm giác bồn chồn khó chịu. Đôi khi họ ngủ nhiều quá mức mà vẫn mệt mỏi, uể oải. Không thiết ăn uống Họ có cảm giác chán ăn uống, ăn ít, ăn không ngon miệng, không thích ăn hoặc sợ ăn dẫn đến sút cân. Một số khác lại có xu hướng ăn nhiều quá mức. Ngại giao tiếp Người bệnh có xu hướng ngại giao tiếp với người khác, trốn tránh, trở nên ít nói bất thường, lười vận động. Bồn chồn, lo âu Luôn có cảm giác bồn chồn, lo âu, đứng ngồi không yên, đau đầu, đau mỏi toàn thân, đau ngực, táo bón, sợ lạnh. Uể oải, mất hứng thú với cuộc sống Cảm thấy mệt mỏi, suy nghĩ chậm chạp, buồn rầu, mất hứng thú làm việc và giải trí bao gồm cả các hoạt động yêu thích như thể thao, xem tivi, đọc sách báo, xem phim... Họ thường than vãn về mọi thứ xung quanh buồn rầu, ảm đạm, mong cho thời gian qua nhanh. Bi quan Bi quan lo lắng về tương lai cho bản thân và gia đình, luôn lo sợ điều xấu xảy ra. Nghĩ mình không tốt Nghĩ rằng mình không xứng đáng với bản thân và mọi người. Cho rằng mình phạm nhiều khuyết điểm, tội lỗi, không muốn tiếp xúc với ai. Sợ trở thành gánh nặng Nghĩ rằng mình không xứng đáng được ăn, được sống, sợ bản thân là gánh nặng cho mọi người. Hủy hoại bản thân Có ý nghĩ làm hại bản thân, muốn tự sát, treo cổ, nhảy lầu... Các chuyên gia khuyên mọi người khi nhận thấy mình có những dấu hiệu trên, nên đến bác sĩ chuyên khoa tâm thần kinh để được khám và tư vấn. Có nhiều cách điều trị, bao gồm dùng thuốc và trị liệu tâm lý, hành vi. Một số nghiên cứu khoa học cho thấy tình trạng trầm cảm có thể được cải thiện khi bệnh nhân tăng cường lao động hoặc hoạt động thể chất thay vì chỉ nằm hay ngồi một chỗ. Đi du lịch và dạo bộ ngoài trời hàng ngày cũng có tác dụng chữa bệnh. Để phòng tránh trầm cảm, chuyên gia dinh dưỡng Mỹ Patrick Holford khuyên mọi người nên có chế độ ăn ít đường và bổ sung axit béo omega-3, hạn chế hút thuốc lá và uống rượu, ăn nhiều rau xanh, hoa quả, mầm lúa mạch, duy trì ăn ít nhất ba bữa cá mỗi tuần. Tránh các món nướng, rán và thực phẩm chế biến sẵn, đồ hộp. Ăn nhiều hạt dẻ, bí, hướng dương, dầu cá. Tắm nắng cũng là biện pháp phòng tránh và cải thiện chứng trầm cảm hiệu quả, bởi vitamin D và axit béo omega-3 giúp tăng sức đề kháng của cơ thể vừa góp phần cải thiện trạng thái tinh thần và hoạt động trí tuệ. Let's block ads! (Why?)Nguồn KhoaHoc.TV