Xe gắn máy hai bánh (xe gắn máy, xe máy) đã và đang là phương tiện giao thông phổ biến ở nhiều quốc gia. Cùng với nhu cầu sử dụng, các công ty sản xuất xe gắn máy ở nhiều quốc gia đã không ngừng cạnh tranh sáng tạo, cải tiến về kiếu dáng và đặc tính kỹ thuật để khẳng định thương hiệu. Có thể nói chiếc xe gắn máy không chỉ là phương tiện giao thông mà còn là tác phẩm nghệ thuật. Người sở hữu chiếc xe gắn máy không chỉ để đi lại mà còn để thể hiện sở thích của mình. Tại Việt Nam hiện nay, có nhiều thương hiệu, mỗi thương hiệu có nhiều dòng xe và nhiều đời xe gắn máy lưu thông trên các nẻo đường làm cho tập hợp xe gắn máy hai bánh thật đa dạng. Nửa cuối thế kỷ 19: Lịch sử xe gắn máy bắt đầu Ý tưởng xe gắn máy dường như đã xảy ra với rất nhiều kỹ sư và nhà phát minh đặc biệt là ở Châu Âu sau sự ra đời của các phát minh: động cơ hơi nước (James Watt), động cơ điện (Michael Faraday), xe đạp, động cơ đốt trong (Etienne Lenoir),...trong khoảng cuối thế kỷ 18 và nửa đầu thế kỷ 19. Ý tưởng trên đã được thể hiện bằng việc cho ra đời những mẫu "xe đạp gắn động cơ" vào khoảng nửa cuối của thế kỷ 19, đánh dấu mốc cho lịch sử phát triển của xe gắn máy. Năm 1868 - Tại Pháp Chiếc xe đạp gắn động cơ hơi nước Michaux-Perreaux là xe gắn máy đầu tiên ra đời tại Pháp do Pierre Michaux và Louis-Guillaume Perreaux thực hiện. Pierre Michaux (25/6/1813 - 1883) là một thợ rèn, người cung cấp phụ tùng cho các xe thương mại Paris trong những năm 1850 và năm 1860. Louis-Guillaume Perreaux (19/2/1816 - 05/4/1889) là kỹ sư Pháp, người đã thiết kế chiếc xe đạp gắn động cơ hơi nước sử dụng nhiên liệu cồn đầu tiên tại Pháp. Chiếc xe của họ đã được cấp bằng sáng chế vào năm 1868 và năm 1869 đã được trình bày cho công chúng. Cho tới nay vẫn còn tồn tại một số tranh cãi về tác giả của chiếc xe này do ghi nhận về tuổi của Perreaux trong bằng sáng chế. Tuy nhiên, phần lớn đều công nhận là xe gắn máy Michaux-Perreaux. Hiện tại, bản gốc duy nhất chiếc Michaux-Perreaux được lưu giữ tại bảo tàng Ile-de-France Chiếc Michaux-Perreaux bao gồm khung bằng sắt rèn, thiết kế theo dạng khung xe đạp có sửa đổi cho yên ngồi nâng lên tạo khoảng trống để lắp động cơ hơi nước nhỏ. Bàn đạp gắn ở bánh trước xe đạp vẫn được giữ lại từ xe đạp. Bánh xe trước lớn hơn bánh sau, đều làm bằng gỗ bọc sắt rèn, nan hoa bằng sắt rèn. Động cơ được gắn trên thanh dọc của khung nghiêng một góc 45 độ, đằng sau nó là lò hơi và các thùng nhiên liệu, nước. Đó là động cơ hơi nước một xi-lanh làm bằng đồng mạ (động cơ đốt ngoài), công suất 0,5 mã lực. Chuyển động của động cơ được truyền cho bánh sau theo cơ cấu gồm bánh ròng rọc và dây cu roa. Tuy nhiên, chiếc xe đầu tiên vẫn chưa có bộ phận giảm sóc và phanh. Khi điều khiển chiếc Michaux-Perreaux, trước tiên người ta châm lửa cho nhiên liệu cồn cháy để đun cho nước sôi và chuyển thành hơi, sau đó người điều khiển lên yên ngồi và dùng chân đạp bàn đạp cho xe chuyển động về phía trước làm tăng áp suất hơi nước ở xi lanh để động cơ hoạt động kéo xe chạy. Vận tốc tối đa của Michaux-Perreaux lúc bấy giờ đạt 15km/h. Năm 1869 - Tại Mỹ Rời xứ sở của rượu nho ta đến tiểu ban Texas Hoa Kì xem những con người yêu thích thiên nhiên - những chàng cao bồi cưỡi ngựa bắn súng trước khi đến Bảo tàng quốc gia Mỹ tìm hiểu ứng cử viên thứ hai tranh ngôi vị "chiếc xe gắn máy đầu tiên". Xe đạp gắn máy hơi nước đầu tiên tại Pháp ra đời không lâu thì tại Mỹ, vào năm 1869, Sylvester H.Roper giới thiệu lần đầu tiên chiếc xe gắn động cơ hơi nước của mình tại Massachusetts. Sylvester Howard Roper (1823 - 1896) là một nhà phát minh sung mãn trên nhiều lĩnh vực. Hiện tại, nguyên mẫu chiếc xe gắn máy hơi nước Roper1869 được lưu giữ tại Viện Smithsonian Hoa Kì Chiếc Roper vẫn là sự kết hợp động cơ hơi nước với xe đạp nhưng vị trí lắp động cơ được đặt giữa hai bánh như xe gắn máy hiện đại. Về kết cấu, Roper bao gồm khung xe bằng thép, thiết kế theo dạng khung xe đạp có 2 bánh bằng nhau. Khoảng cách giữa trục bánh trước và bánh sau là 49 inch. Hai bánh xe bằng gỗ bọc thép ở mặt ngoài, có đường kính 34 inch. Treo dưới yên ngồi là một nồi hơi dùng than, gắn liền với khung nhờ cặp lò xo. Ở phía bánh sau, trên mỗi bên của khung lặp một bộ piston xilanh, có ống dẫn thông với lò hơi. Ngoài ra, một ống khói ngắn của nồi hơi dựng lên từ phía sau yên xe. Chuyển động của động cơ được truyền cho bánh sau theo cơ cấu thanh truyền-tay quay. Chỗ để chân được gắn vào hai đầu trục trước. Roper có công suất động cơ 0,5 mã lực và tốc độ đạt được 16km/h. Roper được đánh giá là có nhiều tính năng xe máy hiện đại, bao gồm một dây cáp gắn liền với tay lái vận hành bướm ga, một dây xích từ tay lái để kéo tấm kim loại dạng cong như cái muỗng áp vào bánh trước như hệ thống phanh. Người điều khiển chuẩn bị vận hành chiếc Roper bằng cách mở cửa hông ở phần dưới nồi hơi, châm lửa cho than trong lò cháy hồng đun sôi nước trong nồi hơi và tạo ra hơi nước để cấp năng lượng cho động cơ. Nước được cung cấp từ bồn chứa ở phần trên nồi hơi. Khi áp suất hơi nước đủ lớn, người lái thắt chặt cáp để "tăng ga" cho xe tiến về phía trước. Những người hàng xóm của Roper đã kể lại rằng nhiều người đi bộ sợ hãi, khó chịu vì tiếng ồn và khói cay khi ông cưỡi chiếc xe mà ông sáng tạo đi ra phố. Thậm chí ông đã từng vào đồn cảnh sát vì lý do đó nhưng nhanh chóng được thả ra do bằng sáng chế đã được cấp. Nguồn KhoaHoc.com.vn